Xoắn khuẩn trong các ao hồ
Xoắn khuẩn là gì?
Xoắn khuẩn là tên gọi chung cho một nhóm vi khuẩn thuộc giống (genus) Leptospira, thuộc họ Leptospiraceae, bộ Spirochaetales. Các xoắn khuẩn là đa phần có kích thước nhỏ, linh động, có nhiều vòng xoắn tít nhau (15-20 vòng), hai đầu uốn lại thành hình móc câu (đôi khi chỉ có 1 đầu uốn), di động nhờ hai lông roi bên trong màng tế bào. Các xoắn khuẩn hiếu khí, khi nhuộm bắt màu gram âm.
Thành phần cấu trúc chính của xoắn khuẩn là lớp màng ngoài (outer membrane) bao quanh lớp màng đôi gồm màng tế bào và lớp peptidoglycan. Khác với các nhóm vi khuẩn khác lớp peptidoglycan thường liên hệ với lớp màng ngòi, xoắn khuẩn có lớp peptidoglycan có liên hệ mật thiết với bào tương (và màng bào tương hơn).
Màng ngoài (outer membrane) của xoắn khuẩn chứa lipopolysaccharide (LPS) là kháng nguyên chính của nhóm vi khuẩn này. Ngoài ra, còn có các protein cấu trúc và protein chức năng cấu thành nên màng ngoài của vi khuẩn. Các protein hiện diện nhiều trên bề mặt tế bào là các Lipoprotein trong đó LipL32, LipL41, LipL21 và Loa22 (probable lipoproteins - protein vận chuyển) là tiêu biểu.
Giống Leptospira gồm cả nhóm các loài gây bệnh (pathogenic) và nhóm các loài sống hoại sinh (saprophytic). Có 14 loài gây bệnh gồm:
Leptospira alexanderi, Leptospira alstonii, Leptospira borgpetersenii, Leptospira broomii, Leptospira inadai, Leptospira interrogans, Leptospira fainei, Leptospira kirschneri, Leptospira kmetyi, Leptospira licerasiae, Leptospira noguchii, Leptospira santarosai, Leptospira weilii, và Leptospira wolffii, và có hơn 260 serovar. L. weilii được tìm thấy nhiều ở Trung Quốc và Đông Á. L. interrorgans và L. borgpetersenii chủ yếu gây bệnh trên heo. Trong bài viết này, chúng ta chủ yếu đề cập đến nhóm xoắn khuẩn gây bệnh trên động vật có vú.
Sự phân loại các serovar của xoắn khuẩn dựa trên kháng nguyên LPS và sự phân loại này không liên quan về mặt di truyền
Loài nào có thể nhiễm xoắn khuẩn?
Hầu hết các động vật có vú đều mẫn cảm mầm bệnh từ động vật (có vú) hoang dã, trâu, bò, ngựa, heo, cừu, dê, chó, mèo đến các loài gặm nhấm và cả người đều có thể mắc bệnh. Trên người, các nhóm dễ có nguy cơ nhiễm bệnh là những người khai phá rừng, nông dân trồng lúa nước, mía, công nhân chăn nuôi, bác sĩ thú y, công nhân lò mổ, người làm việc trong hầm mỏ, nhà vệ sinh, người đi cắm trại, bơi ở ao, hồ, bộ đội,… Trên người bệnh xảy ra trên nam giới, xảy ra ở mọi lứa tuổi.
Các serovar của xoắn khuẩn thuộc serogroup Pomona thường là các serovar bị nhiễm nhiễm trên gia súc trong chăn nuôi. Có bốn loài thuộc serogroup Pomona là L. interrorgans, L. kirschneri, L. noguchii và L. santarosai. Trên heo chỉ có L. interrorgans serovar Pomona và L. kirschneri serovar Mozdok được phân lập ra phổ biến.
Con đường truyền lây xoắn khuẩn
Trong chăn nuôi:
Bệnh lây truyền trong đàn chủ yếu qua ba con đường chính:
- Sự giới thiệu mầm bệnh từ đàn nhiễm qua đàn chưa nhiễm, trực tiếp từ thú nhiễm sang thú chưa nhiễm
- Thú bị nhiễm do sự vấy nhiễm mầm bệnh của môi trường.
- Tiếp xúc với các động vật nhiễm bệnh trung gian (chuột nhà, thú hoang dã) hoặc thú mang trùng
Đặc biệt các hậu bị thay thế và các con nọc bị nhiễm bệnh là những tác nhân đáng chú ý trong việc lây truyền mầm bệnh trong trại heo. Ngoài ra có sự hiện diện của bệnh PRRS trong đàn cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến bệnh ở trại heo. Độ ẩm cao là yếu tố quyết định để xoắn khuẩn có thể xâm nhiễm khi ở môi trường bên ngoài. Loài vi khuẩn này không chịu được độ ẩm thấp, khi môi trường quá khô chúng không tồn tại lâu, nhưng khi nước tiểu của thú bệnh vấy nhiễm ra đất ẩm hoặc nguồn nước có độ pH trung tính hoặc kiềm tính nhẹ thì xoắn khuẩn có thể tồn tại một thời gian tương đối (lên đến tháng).
Xoắn khuẩn có thể xâm nhập qua niêm mạc lành (niêm mạc mắt, mũi, miệng) và vết thương trên da. Người và động vật tiếp xúc với nước, đất, bùn,… bị vấy nhiễm xoắn khuẩn thường dễ nhiễm bệnh. Tỷ lệ bệnh cao ở khu vực nhiệt đới, có mưa nhiều, bệnh có thể xảy ra quanh năm, tuy vậy tập trung cao điểm vào mùa mưa.
Nếu nái đẻ có kháng thể chống lại xoắn khuẩn, thì kháng thể mẹ truyền có trong sữa đầu sẽ giúp heo con được bảo vệ khỏi sự nhiễm loại mầm bệnh này trong vài tuần, tuy vậy phần lớn phụ thuộc vào số lượng kháng thể mẹ truyền mà heo con nhận được. Một nghiên cứu tại New Zealand chỉ ra rằng sự nhiễm xoắn khuẩn thường biểu hiện lâm sàng rõ ràng ở heo trên 12 tuần tuổi (3 tháng tuổi). Cường độ bài thải mầm bệnh ở nước tiểu đạt lượng lớn nhất trong 3-4 tuần đầu sau đó giảm dần và gián đoạn, tuy vậy tình trạng bài thải có thể kéo dài vài tháng. Sự lây truyền giữa các nhóm heo thịt chủ yếu từ các nước thải chứa nước tiểu mang xoắn khuẩn từ hệ thống cống rãnh chung.
Bảng thể hiện vòng truyền lây của bệnh từ xoắn khuẩn
Cơ chế sinh bệnh
Vi khuẩn xâm nhập qua đường niêm mạc mắt, mũi, miệng và sinh dục.
Nhiễm trùng huyết có thể xảy ra trong vòng 1 đến 2 ngày sau khi nhiễm, và kéo dài lên đến một tuần. Trong giai đoạn này xoắn khuẩn có thể được phân lập từ hầu hết các cơ quan và ngay cả từ dịch não tủy, do khu trú trong các cơ quan này, chúng cũng làm tổn thương các hệ cơ quan đó. Tổn thương gan gây triệu chứng vàng da, tổn thương thận gây vô niệu, tổn thương hệ thống thần kinh gây uể oải, co giật
Nhiễm trùng huyết gây tổn thương nội mạc mạch máu, rối loạn đông máu nội mạch, các mạch máu nhỏ thường bị tấn công nặng nhất, từ đó gây thiếu máu cục bộ do xuất huyết
Khi xuất hiện các kháng thể lưu hành trong máu, giai đoạn nhiễm trùng huyết dần kết thúc, kháng thể thường được phát hiện từ 5-10 ngày sau khi nhiễm. Kháng thể thông thường đạt đỉnh trong vòng ba tuần
Tiếp theo sau giai đoạn nhiễm xoắn khuẩn huyết, thì tới giai đoạn nhiễm xoắn khuẩn niệu (leptospiruria) xoắn khuẩn có mặt trong bể thận, ống dẫn tiểu, nước tiểu, bàng quang và có thể theo nước tiểu ra ngoài. Thông thường ban đầu định vị ở ống lượn gần để nhân lên và bài thải qua nước tiểu. Lượng bài thải qua nước tiểu tùy thuộc vào cơ địa cá thể và serovar gây bệnh. Ví dụ serovar Pomona có cường độ bài thải mầm bệnh cao nhất trong khoảng tháng đầu khi định vị và nhân lên, khi đó mỗi một ml nước tiểu có thể hiện diện lên đến 1 triệu xoắn khuẩn.
Dấu hiệu lâm sàng trên heo
Hai nhóm heo dễ xuất hiện dấu hiệu lâm sàng nhất là nhóm heo trẻ và nhóm heo bầu.
Cấp tính
Bỏ ăn, sốt, bơ phờ là các triệu chứng chung chung.
Trên heo con một số báo cáo cho thấy vàng da, còi cọc và hemoglobin niệu khi xảy ra dịch, tuy vậy mức độ nghiêm trọng thì khá hiếm.
Mãn tính
Các xoắn khuẩn còn định vị ở tử cung của nái mang thai. Thường trong nữa sau của thai kỳ các xoắn khuẩn gây xảy thai, thai chết ngộp, và gây ra các bệnh lý cho heo con sơ sinh. Xảy thai và thai chết ngộp xảy ra sau 1-4 tuần khi heo nái mang thai bị nhiễm. Một số heo con chết ngộp có thể phát hiện kháng thể chống lại xoắn thể. Sinh bệnh học của quá trình này chưa được tìm hiểu thấu đáo, tuy nhiên nhiều nhà khoa học tin rằng là do vi khuẩn xâm nhập qua đường nhau thai.
Xảy thai, sinh non, heo chết ngộp, khi heo đẻ ra bị giảm sức khỏe, giảm số lượng lứa đẻ chủ yếu là do serovar Pomona gây ra.
Dấu hiệu lâm sàng trên chó
Trên chó nhiễm xoắn khuẩn chủ yếu gây bệnh trên gan và thận và đôi khi ảnh hưởng đến các hệ cơ quan khác
Trên chó Serovar chủ yếu gây bệnh là Canicola
Nôn ói, bỏ ăn, uể oải là các triệu chứng chung chung
Hầu hết các dấu hiệu lâm sàng cấp tính trên chó xảy ra trên hệ niệu, đặc biệt là thận, bao gồm đa niệu hoặc vô niệu. Tổn thương gan cấp tính có thể cộng hưởng với tổn thương thận cấp tính gây nên vàng da.
Bốn triệu chứng chính để định hướng bệnh trên chó là vàng da, xuất huyết, tăng ure huyết, và rối loạn sinh sản
Nguyên tắc xét nghiệm chung
Phân lập từ mẫu máu thường được lấy trong tuần đầu tiên của bệnh
Phân lập từ mẫu nước tiểu thường được lấy sau tuần thứ 2 của bệnh
Ngoài ra còn các xét nghiệm phát hiện kháng nguyên như PCR, hoặc kháng thể như ELISA, MAT, IF
Bảng mô tả các ưu nhược điểm khi đưa đến quyết định xét nghiệm xoắn khuẩn
Chúng ta nên phòng bệnh xoắn khuẩn ra sao?
Khi đi rừng, lội suối, các vùng nước lạ, chúng ta cần phải mang trang phục phòng hộ, che kín, bảo vệ cơ thể khỏi vấy nhiễm bởi xoắn khuẩn. Vì nước tiểu của vật mang trùng có thể bài thải ra ngoài môi trường đặc biệt là các vùng sông hồ, các vũng nước, và nền đất ẩm ướt, khi chúng tiếp xúc các xoắn khuẩn có thể xâm nhập vào các vùng da lành hoặc các niêm mạc như mắt, mũi, miệng. Hãy mang kính khi đi bơi để bảo vệ niêm mạc mắt, các vết thương hở nên được dán băng keo chống nước để che lại.
Hạn chế tiếp xúc với nguồn nước cống, nước lũ, nước tiểu của động vật. Không tiếp xúc với tử thi của các loài động vật bao gồm thú nuôi, gia súc, xác các loài gặm nhấm, thú hoang dã, khi cần thiết trong việc tiếp xúc, cần mang quần áo bảo hộ và găng tay y tế để bảo vệ cơ thể khỏi sự vấy nhiễm và xâm nhiễm.
Đối với gia đình có nuôi chó, tham khảo ý kiến bác sĩ thú y về việc tiêm ngừa xoắn khuẩn cho chó để phòng ngừa việc chó nhiễm bệnh và lây truyền qua cho các chủ nuôi.
Lọc và đun sôi nguồn nước trước khi uống để hạn chế nhiễm xoắn khuẩn.
Tài liệu tham khảo:
Bệnh truyền lây giữa người và động vật. Học Viện Nông Nghiệp Việt Nam. (2016). Bệnh xoắn khuẩn. Từ trang 112–124.
Leptospirosis: A leisure and occupational hazard - brightman - 2018 - trends in Urology & Men’s health - wiley online library. (n.d.). https://wchh.onlinelibrary.wiley.com/doi/pdf/10.1002/tre.619
Nhận xét
Đăng nhận xét